Luật
Quản lý thuế (sửa đổi) gồm 17 chương, 152 điều quy định việc quản lý
các loại thuế, các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước.
5
trường hợp được xóa tiền nợ thuế, tiền phạt, chậm nộp
Trước
khi biểu quyết thông qua toàn văn dự án luật, Quốc hội đã biểu quyết 2 điều
trong dự án luật, trong đó có trường hợp được xóa nợ thuế (Điều 85).
Theo
đó, Quốc hội đã nhất trí đối với 5 trường hợp được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm
nộp, tiền phạt, đó là: Thứ nhất, doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản
đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của pháp luật về phá sản mà
không còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt.
Thứ
hai, cá nhân đã chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết, mất năng lực hành vi
dân sự mà không có tài sản, bao gồm cả tài sản được thừa kế để nộp tiền thuế,
tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ.
Trường
hợp thứ ba được xóa nợ thuế là: các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền
phạt của người nộp thuế không thuộc trường hợp quy định tại 2 trường hợp nêu
trên, mà cơ quan quản lý thuế đã áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại điểm
g khoản 1 Điều 125 của Luật này và các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền
phạt này đã quá 10 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế nhưng không có khả năng
thu hồi. Người nộp thuế là cá nhân, cá nhân kinh doanh, chủ hộ gia đình, chủ hộ
kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên đã được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt quy định tại khoản này
trước khi quay lại sản xuất kinh doanh hoặc thành lập cơ sở sản xuất kinh doanh
mới thì phải hoàn trả cho Nhà nước khoản nợ tiền thuế, tiền phạt, tiền chậm nộp
đã được xoá.
Thứ
tư, tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với các trường hợp bị ảnh hưởng do
thiên tai, thảm họa, dịch bệnh có phạm vi rộng đã được xem xét miễn tiền chậm
nộp theo quy định tại khoản 8 Điều 59 của Luật này và đã được gia hạn nộp thuế
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 62 của Luật này mà vẫn còn thiệt hại,
không có khả năng phục hồi được sản xuất kinh doanh và không có khả năng nộp
tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt.
Trường
hợp thứ 5 được xóa nợ thuế là: Chính phủ quy định việc phối hợp giữa cơ quan
quản lý thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh, chính quyền địa phương bảo đảm các
khoản tiền thuế tiền chậm nộp, tiền phạt đã được xóa phải được hoàn trả vào
ngân sách nhà nước theo quy định tại trường hợp thứ 3 được xóa nợ, trước khi
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Luật
quy đinh, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ,
Nhà nước đảm bảo các nguồn lực tài chính để thực hiện hiện đại hóa công tác
quản lý thuế.
Luật
bổ sung hành vi bị cấm đối với việc làm sai lệch, sử dụng sai mục đích, truy
cập trái phép, phá huỷ hệ thống thông tin về người nộp thuế .
Người
nộp thuế có trách nhiệm thực hiện kiến nghị, kết luận Kiểm toán nhà nước, Thanh
tra nhà nước
Về
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước (Điều 21) và
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan Thanh tra nhà nước (Điều 22),
trình bày báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật trước đó, Chủ nhiệm
Ủy ban Tài chính – Ngân sách của QH Nguyễn Đức Hải cho biết, tiếp thu ý kiến
đại biểu QH, để bảo đảm trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế và người nộp thuế
theo quy định của các luật chuyên ngành, Ủy ban Thường vụ QH (UBTVQH) đã chỉ
đạo Cơ quan thẩm tra và Cơ quan soạn thảo bổ sung nội dung quy định cơ quan quản
lý thuế và người nộp thuế có trách nhiệm thực hiện kiến nghị, kết luận của cơ
quan Kiểm toán nhà nước, Thanh tra nhà nước.
“Để
đảm bảo khách quan, minh bạch, bổ sung quy định khi người nộp thuế chưa đồng ý
với nghĩa vụ thuế phải nộp thì người nộp thuế có văn bản đề nghị cơ quan quản
lý thuế và cơ quan Kiểm toán nhà nước, Thanh tra nhà nước xem xét lại nghĩa vụ
thuế phải nộp; Kiểm toán nhà nước, Thanh tra nhà nước chủ trì, phối hợp với cơ
quan quản lý thuế thực hiện việc xác định chính xác nghĩa vụ thuế của người nộp
thuế và chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật”, ông Nguyễn Đức Hải
nói.
Về
xử lý đối với việc chậm nộp tiền thuế (Điều 59), Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính –
Ngân sách của QH Nguyễn Đức Hải cho hay: Có ý kiến cho rằng, việc quy định tiền
chậm nộp ở mức 0,03%/ngày là thấp hơn so với lãi suất ngân hàng, dẫn đến việc
các doanh nghiệp cố tình trây ì, chậm nộp tiền thuế để giảm chi phí, do đó đề
nghị cần nghiên cứu tăng mức tính tiền chậm nộp ở mức cao hơn.
UBTVQH
xin giải trình như sau: Trong giai đoạn vừa qua, do biến động của nền kinh tế,
nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn vì lý do khách quan, do đó để nuôi dưỡng nguồn
thu, tạo điều kiện và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Quốc hội đã nhiều lần
điều chỉnh giảm mức tiền chậm nộp (từ 0,07% xuống 0,05% và hiện nay là
0,03%/ngày). Mặt khác, mức tính tiền chậm nộp 0,03%/ngày tương đương với mức
10,95%/năm, trong khi ghi nhận lãi suất huy động bằng VND hiện nay khoảng 4,5 -
5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng và mặt bằng lãi
suất cho vay VND hiện nay phổ biến từ 6 - 9%/năm đối với các khoản cho vay ngắn
hạn. Như vậy, mức tiền chậm nộp hiện nay đã vượt quá mức lãi suất cho vay cao
nhất trên thị trường. Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho phép giữ như dự thảo Luật
trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7./.
Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2020. Quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử của Luật này có hiệu lực từ ngày 1/7/2022; khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân áp dụng quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử của Luật này trước ngày ngày 1/7/2022.
ACMAN Tổng hợp.